Tiến bộ kỹ thuật mới và sự phát triển của lực lượng sản xuất


     Vào 30 năm cuối thế kỷ XIX, sự xuất hiện của nhiều phát minh, sáng chế đã góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất trong các nước tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ.
     Trước hết là những phát minh về năng lượng. Trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản trước độc quyền, hơi nước là nguồn năng lượng chủ yếu thì ở thời kỳ này đã xuất hiện hai nguồn năng lượng mới là điện năng và dầu lửa, khí đốt. Điện cùng dầu lửa và khí đốt là những khám phá vĩ đại làm cơ sở cho nhiều phát minh mới ứng dụng trong các ngành kinh tế. Hàng loạt những phát minh sáng chế quan trọng liên quan đến các nguồn năng lượng mới đã xuất hiện như mảy phát điện, máy chuyển từ điện năng sang cơ năng, máy biến thế, tàu điện, bóng đèn điện. Việc phát minh ra nguồn năng lượng điện năng và các ứng dụng của nó đã cho phép chuyển những động cơ đi xa nguồn cung cấp điện. Đó là một ưu thế lớn của điện năng so với hơi nước. Động cơ điện đã dần thay thế cho động cơ hơi nước trong các ngành công nghiệp. Mặt khác, từ việc phát hiện ra dầu lửa và khí đốt, con người đã chế tạo được động cơ đốt trong, động cơ diesel… Từ những phát minh này, nhiều ngành công nghiệp mới ra đời như ngành chế tạo ô tô, máy bay, đầu máy diesel v.v…

Tiến bộ kỹ thuật mới và sự phát triển của lực lượng sản xuất

     Trong lĩnh vực hóa học, con người đã khám phá ra những nguyên tắc phân tích và tổng hợp các chất, từ đó đã chế ra các loại thuốc nhuộm, thuốc chữa bệnh, nước hoa, các loại axit, muối dùng trong sản xuất và tiêu dùng.
     Kỹ thuật mới và việc khám phá ra quá trình công nghệ mới là tiền đề cho phát minh về phương pháp luyện kim mới, đó là phương pháp luyện thép của Bessemer và Martin vào những năm 50-60 của thế kỷ XIX. Công nghệ mới cho phép thay thế những lò luyện kim nhỏ bằng những nhà máy luyện kim lớn có chu trình hoàn chỉnh. Thép được sử dụng rộng rãi trong ngành chế tạo máy móc thiết bị.
     Những tiến bộ kỹ thuật mới đã thúc đẩy sự phát triển các ngành công nghiệp mới. Đầu thế kỷ XX, công suất điện của 4 nước tư bản hàng đầu là 2 triệu kw. Năm 1913, sản lượng điện của Mỹ và các nước tư bản ở châu Âu đạt 101 tỷ kwh. Điện năng đã tạo điều kiện cho sự phát triển công nghệ tự động hóa ở các nước tư bản trong thế kỷ XX. Công nghiệp chế tạo ô tô tuy mới ra đời nhưng đã phát triển nhanh. Năm 1892, những chiếc ô tô đầu tiên mới được sản xuất, nhưng chỉ 8 năm sau hãng ô tô Ford của Mỹ đã sản xuất được 4.000 chiếc. Trong 30 năm cuối thế kỷ XIX sản lượng gang tăng 3 lần, thép tăng 20 lần, từ 1,2 triệu tấn lên 23,3 triệu tấn. Năm 1913, riêng Mỹ đã sản xuất được gần 32 triệu tấn thép, gần bằng sản lượng thép của các nước tư bản châu Âu cộng lại. Sản lượng than của Mỹ cũng tăng nhanh để đáp ứng nhu cầu của ngành luyện kim lên tới 517 triệu tân, của Anh đạt 292 triệu tấn, của Đức là 190 triệu tấn, của Pháp là 40 triệu tấn.
     Công nghiệp phát triển mạnh đánh dấu mốc căn bản hoàn thành quá trình công nghiệp hóa ở Mỹ và các nước Tây Âu trong khoảng 20 năm đầu thế kỷ XX. Cơ cấu kinh tế thay đổi, tỷ trọng của công nghiệp trong thu nhập quốc dân đã vượt tỷ trọng của nông nghiệp. Cơ cấu lao động xã hội cũng có sự thay đổi lớn, tỷ trọng lao động trong công nghiệp ngày càng có xu hướng gia tăng trong khi lao động trong khu vực nông nghiệp ngày càng giảm. Tốc độ đô thị hóa diễn ra nhanh chóng. Tỷ lệ dân cư thành thị đã vượt hẳn so với dân cư nông thôn ở các nước tư bản.
Từ khóa tìm kiếm nhiều: lực lượng sản xuất, cach mang cong nghiep o chau au