Sơ lược quá trình phát triển lịch sử kinh tế nhân loại

Trong quá trình phát triển kinh tế của nhân loại, từ kinh tế tự nhiên sang phát triền kinh tế hàng hỏa giản đơn, tiến tới kinh tế hàng hóa và giai đoạn cao của nó là kinh tế thị trường

Lịch sử kinh tế là một môn khoa học

Lịch sử kinh tế là một môn khoa học xã hội, nghiên cứu sự phát triển kinh tế của một nước hoặc một nhóm nước qua các thời kỳ lịch sử hay trong một giai đoạn lịch sử cụ thể.

Khoa học lịch sử kinh tế ngày càng được mở rộng

Các nước phát triển Mỹ, Nhật Bản, Tây Âu đều có những công trình nghiên cứu đồ sộ về lịch sử phát triển kinh tế của nước mình, cũng như sự phát triển kinh tế của các nước trong khu vực và thế giới.

Bản chất của một nền kinh tế

Một nền kinh tế được cấu thành bởi một hệ thống tổng thể các ngành, các lĩnh vực, các chủ thể sản xuất, kinh doanh, các quá trình sản xuất, trao đổi, phân phối, tiêu dùng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ và luôn gắn với một quốc gia hoặc một vùng

Sự phát triển của lịch sử sản xuất

Trong nghiên cứu về sự phát triển của quan hệ sản xuất, lịch sử kinh tế bàn đến cả ba mặt của quan hệ sản xuất là quan hệ sở hữu, quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối.

Cách mạng công nghiệp ở Châu Âu

      Cách mạng công nghiệp ở Châu Âu diễn ra vào khoảng năm 1807 với sự kiện về sự xuất hiện tàu thủy chảy bằng hơi nước
      Xuất phát từ những điều kiện lịch sử cụ thể riêng, sự ra đời của chủ nghĩa tư bản ở mỗi nước có những đặc điểm riêng, đặc biệt là sự nảy sinh chủ nghĩa tư bản trong nông nghiệp.

    Theo c. Mác, chủ nghĩa tư bản ở Anh, Hà Lan thuộc dạng cổ điển có đặc trưng như: cách mạng ruộng đất bắt đầu sớm, chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh trong nông nghiệp, tài nguyên khai thác từ các nước thuộc địa, chính sách của nhà nước phong kiến có tác động mạnh đến quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản. Ở Pháp, sự ra đời của chủ nghĩa tư bản cũng mang những hình thức cổ điển như ở Anh, Hà Lan, nhưng điểm khác biệt là sự phát triển của chủ nghĩa tư bản trong nông nghiệp diễn ra trong những điều kiện thuận lợi hơn cho nông dân vì cách mạng tư sản Pháp diễn ra triệt để đã quét sạch các đằng cấp phong kiến.

Cách mạng công nghiệp ở Châu Âu

Cách mạng công nghiệp ở Châu Âu


    Ớ Mỹ, Canada, Ổtxtrâylia… chủ nghĩa tư bản phát triển trong nông nghiệp theo con đường trang trại, còn gọi là con đường “kiểu Mỹ”.

    Theo V.I. Lênin, con đường phát triển chủ nghĩa tư bản ở Đức, Ba Lan, Hungary, Rumani, Nhật Bản, Nga là con đường “kiểu Phả”. Ở các nước này chủ nghĩa tư bản trong nông nghiệp phát triển chậm chạp vì các quý tộc bảo tồn tàn dư của chế độ nông nô trong các trang trại quý tộc. Chủ nghĩa tư bản phát triển trong nông nghiệp dựa trên cơ sở của lao động cưỡng bức nên cũng bị phong kiến hóa. Chủ nghĩa tư bản quan liêu đã hình thành, cản trở sự phát triển của nền sản xuất xã hội.

THỜI KỲ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN TRƯỚC ĐỘC QUYỀN (1640-1870)

    Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã được khẳng định về mặt pháp lý ở nhiều nước sau khi cách mạng tư sản thành công. Song để cho phương thức sản xuất tư bản chiến tháng hoàn toàn, chủ nghĩa tư bản còn phải trải qua một giai đoạn xây dựng lực lượng sản xuất tương ứng với quan hệ sản xuất của nó. Đó là giai đoạn hình thành và phát triển hệ thống công xưởng dựa trên kỹ thuật máy móc, thay thế cho công trường thủ công.

Cách mạng công nghiệp

Cách mạng công nghiệp ở nước Anh

    Cách mạng công nghiệp là cuộc cách mạng trong kỹ thuật sản xuất, là quá trình thay thế kỳ thuật thủ công bàng kỹ thuật cơ khí.

    Cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên trên thế giới diễn ra ở nước Anh. Cách mạng công nghiệp ở nước Anh gắn với cuộc cách mạng kỹ thuật lần thứ nhất, song nó không chỉ là hiện tượng kỹ thuật thuần tuý, mà còn có ý nghĩa to lớn về kinh tế, xã hội và tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản.

Giới thiệu về công nghiệp hóa theo mô hình cổ điển


    Ngoài ra, trong điều kiện của nền kinh tế thế giới lúc bấy giờ, trật tự phân công lao động quốc tế chưa hình thành nên bản thân các nước tiến hành công nghiệp hóa cũng không tận dụng được ưu thế của phân công lao động quốc tế nên nguồn vốn tích lũy cho công nghiệp hóa thường dựa vào cướp bóc từ thuộc địa, tích lũy từ nông nghiệp và công nghiệp nhẹ trong nước, ở giác độ nhất định có thể thấy rằng, mô hình công nghiệp hóa cổ điển ở các nước Âu, Mỹ trước đây thường gắn liền với quá trình xâm chiếm thuộc địa bằng bạo lực.

Giới thiệu về công nghiệp hóa theo mô hình cổ điển

    Thứ ba, quá trình công nghiệp hóa theo mô hình cổ điển thường diễn ra mang tính tự phát. Công nghiệp hóa theo mô hình cổ điển chịu tác động lớn của bàn tay vô hình (thị trường) còn nhà nước tư bản với tính cách là một lực lượng điều hành có ảnh hưởng đến môi trường sản xuất kinh doanh nhưng không can thiệp trực tiếp vào quá trình công nghiệp hóa.
    Thực tế, việc sử dụng các loại công cụ lao động mới, các loại máy móc cơ khí đã mang lại cho các ngành sản xuất năng suất cao hơn, sản lượng tăng nhanh, giá thành sản phẩm giảm xuống và cuối cùng là gia tăng lợi nhuận thu về cho các nhà tư bản. Chính lợi nhuận là động cơ thúc đẩy cốc nhà tư bản tiếp tục đồi mới cách thức sản xuất, đưa các loại máy móc, công cụ cơ khí vào sản xuất. Đồng thời, sự cạnh tranh trên thị trường lại thúc đẩy các nhà sản xuất dựa trên công cụ lao động thủ công phải thay đổi cách thức sản xuất nếu không muốn bị loại bỏ. Nhìn chung, cơ chế thị trường có ảnh hưởng tích cực đến phát huy tiềm năng của các nguồn lực và sự sáng tạo của chính con người với tư cách là chủ thề tham gia thị trường.
    Thứ tư, mô hình công nghiệp hóa cổ điển được hoàn thành trong một thời gian tương đối dài. Thực tế, bước đi của cuộc cách mạng công nghiệp và tiếp đó là công nghiệp hóa luôn gắn với những phát minh, sáng chế kỹ thuật và khả năng ứng dụng trong thực tế sản xuất. Đồng thời, quá trình công nghiệp hóa còn gắn liền với quá trình tích lũy vốn của các nhà tư bản. Công nghiệp hóa theo mô hình cổ điển thực tế bắt đầu từ các ngành công nghiệp nhẹ là những ngành đòi hỏi vốn ít, lãi nhanh và tạo tích lũy để tái sản xuất mở rộng. Nói cách khác, sự phát triển của các ngành công nghiệp nhẹ đã tạo điều kiện gia tăng tích lũy vốn để phát triển các ngành công nghiệp nặng.
    Thứ năm, quá trình công nghiệp hóa cũng là quá trình thực hiện cuộc đại phân công lao động xã hội. Công nghiệp tách ra khỏi nông nghiệp và trở thành ngành sản xuất độc lập. Điều này đã làm thay đổi căn bản cấu trúc của nền sản xuất, đại công nghiệp thành nền tảng của cấu trúc kinh tế mới, cấu trúc đại công nghiệp thay cho cấu trúc nông nghiệp và làm cho sản xuất xã hội thành một hệ thống công nghiệp. Đồng thời, trong công nghiệp hóa nông nghiệp, vấn đề giải phóng lao động nông nghiệp, chuyển lao động ra khỏi nông nghiệp có ý nghĩa quyết định, song chìa khóa quyết định việc chuyển lao động khỏi nông nghiệp và giải thể phương thức sàn xuất tiểu nông lại do đại công nghiệp nám giữ và quyết định. Nói cách khác, công nghiệp hóa nông nghiệp xét cả về mặt công nghệ và kinh tế là do đại công nghiệp quyết định.


Đọc thêm tại: